Chamber writers (2): Shibaryou Tarou (司馬遼太郎)


Với loạt bài viết đặc sắc và quý giá về các tiểu thuyết gia lịch sử nổi tiếng Nhật Bản do bạn Hiba cung cấp, VYSA xin được tiếp tục trân trọng giới thiệu đến các bạn tác gia Shibaryou Tarou (司馬遼太郎)(1923~1996) tên thật là Fukuda Teiichi (福田定一), sinh tại Osaka và là một trong những tiểu thuyết gia lịch sử vĩ đại nhất Nhật Bản. Ông được biết đến nhiều qua thể loại tiểu thuyết lịch sử, truyền kỳ với lịch sử quan độc đáo và thể loại tùy bút, bút ký và Essay về lịch sử, văn hóa Nhật Bản, Đại Hàn và Trung Hoa trong thời gian còn làm ký giả cho các tờ báo. Một tập Essay của ông là “Ningen no shudan ni tsuite” (人間の集団について)
(suy nghĩ về tập đoàn người) kể lại chuyến đi thực tế của ông đến Sài Gòn trước năm 1975 và qua đó, đã nêu lên nhận định của mình về tình hình chiến tranh Việt Nam.


Shibaryou Tarou (司馬遼太郎)(1923~1996) tên thật là Fukuda Teiichi (福田定一) sinh tại Osaka và là một trong những tiểu thuyết gia lịch sử vĩ đại nhất Nhật Bản. Ông được biết đến nhiều qua thể loại tiểu thuyết lịch sử, truyền kỳ với lịch sử quan độc đáo và thể loại tùy bút, bút ký và Essay về lịch sử, văn hóa Nhật Bản, Đại Hàn và Trung Hoa trong thời gian còn làm ký giả cho các tờ báo. Các bài Essay của ông được xuất bản thành bộ, trong đó có tập “Kaidou wo yuku” (街道をゆく)(đi trên đường) rất nổi tiếng ghi chép lại những chuyến đi vòng quanh Thế Giới của ông, qua nhiều nước và thông qua đó nói lên cách nhìn nhận của mình về lịch sử, văn hóa mỗi nước mà ông đi qua. Một tập Essay khác là “Ningen no shudan ni tsuite” (人間の集団について)(suy nghĩ về tập đoàn người) kể lại chuyến đi thực tế của ông đến Sài Gòn trước năm 1975 và qua đó, dĩ nhiên, nêu lên nhận định của mình về tình hình chiến tranh Việt Nam.

Shiba là một cây đại thụ trong làng văn học đại chúng, nhân vật trung tâm và là một trong ba người được nhà phê bình Kawamoto Saburou đề cao là “Ichi Hei ni Tarou” (một ông Hei, hai ông Tarou. Ông Hei ở đây là Fujiwara Shuhei, hai ông Tarou là Shiba và Ikenami Shoutarou). Shiba được nhiều người đánh giá cao ở cái nhìn về lịch sử, lịch sử quan của ông thể hiện qua những trường thiên như “Ryouma ga yuku”, “Moeyo Ken”. Dĩ nhiên khi viết về lịch sử thì bị hạn chế rất nhiều về kết cấu, kết thúc và sự kiện. Nhưng Shiba cố gắng thổi một luồng gió mới vào thể loại tiểu thuyết lịch sử khi nhìn nhận nhân vật lịch sử ở những góc độ khác nhau. Ông thường bảo khi quan sát ai đó thì phải trèo lên cao nhìn xuống tổng thế. Còn nếu đứng ngang hàng nhìn mặt thì sẽ phát sinh nhiều ngộ nhận. Vì vậy, lý giải một nhân vật, sự kiện lịch sử là đặc điểm của Shiba. Nói Shiba là một con gà mắn đẻ quả không sai vì ông viết liên tục về sự thay đổi của Nhật Bản tập trung vào cuối thời Edo đến đầu Meiji. Số lượng tác phẩm của ông vô cùng lớn và hần nhiều người Nhật đều đọc ít nhất một tác phẩm của ông.

Kinh lịch:

Shibaryou Tarou chỉ là bút danh, Tarou là một cái tên phổ thông của nam giới. Shibaryou ở đây có nghĩa là “còn lâu mới bằng Shiba”. Shiba mà ông ngưỡng mộ ở đây là Shibasen (Tư Mã Thiên)(司馬遷 )sử gia Trung Hoa với bộ “Sử ký”. Shiba là con thứ của một chủ hiệu thuốc ở Osaka. Đời ông nội vốn là nông dân ở tỉnh Hyougo. Năm lên 2 tuổi thì anh trai mất, còn lại một em gái và một chị gái. Thuở nhỏ rất tinh nghịch, ghét đi học. Năm 1930 vào trường tiểu học ở Osaka, gần nhà mẹ có nhiều di tích thổ ngẫu thời tiền sử và cậu bé Teiichi bắt đầu thu nhặt những mảnh vở đồng, đá của các di tích. Có lẽ sự quan tâm đến lịch sử bắt đầu từ đây?

Tháng 4 năm 1940 Shiba vào khoa tiếng Mông Cổ trường Đại Học Ngoại Ngữ Osaka (Osaka gaidai) và trong thời gian này rất thích đọc văn học Nga và “Sử ký” của Tư Mã Thiên. Năm 1946 vào tờ báo Shin Nihon shimbun và trong khoảng thời gian này bắt đầu nghĩ đến chuyện viết tiểu thuyết. Thời gian này ông viết các ký sự về đại học, tôn giáo nhưng 2 năm sau tờ báo phá sản, Shiba vào đầu quân cho chi nhánh ở Kyouto của tờ Sankei shimbun, một trong những tờ báo lớn nhất thời đó. Năm 1955 cho ra đời tập tùy bút Salaryman sử dụng tên thật. Mấy tác phẩm sau này ông cũng dùng tên thật, sau được người bạn thân Terauchi Daikichi khuyên viết tiểu thuyết và tháng 5-1956 cuốn tiểu thuyết “Perusha no genjutsu shi” (Pháp sư Ba Tư) nhận được giải thưởng câu lạc bộ Koudan lần thứ 8. Đây là cuốn sách đầu tiên sử dụng bút danh Shibaryou Tarou. Sau đó cùng với Terauchi lập ra tạp chí “Kindai setsuwa” và liên tục gửi tác phẩm về nhiều tờ báo khác. Tháng 7 năm 1958 cuốn sách mang tên Shibaryou Tarou lần đầu tiên được xuất bản, là cuốn “Shiroi Kankiten”. Lúc bấy giờ ông được chú mục nhiều về các tác phẩm truyền kỳ cũng Yamada Fuu Tarou nhưng không nghĩ rằng mìng lại trở thành tiểu thuyết gia lịch sử. Sau đó bắt đầu viết “Fukurou no iru tojou” (sau này sửa thành “Fukurou no shiro”, tác phẩm này trở thành đề tài khai thác cho điện ảnh sau này) đăng liên tục trên báo và cho ra đời tập “Osaka samurai”. Năm 1960 cuốn “Fukurou no shiro” nhận được giải thưởng Naoki lần thứ 42, một giải thưởng văn học cao quý. Năm 1961 nghỉ việc ở tờ báo Sankei và bắt đầu cuộc sống của tác gia chuyên nghiệp.

Thời gian đầu ông viết nhiều truyện truyền kỳ và tiểu thuyết thời đại (xem bài tiểu thuyết thời đại) như “Osaka samurai”, “Kaze no bushi”, “Kazegami no mon” và một ít truyện trinh thám nhưng từ năm 1962 đăng tải “Ryouma ga yuku”, “Moeyo Ken” và từ năm 1963 là “Kunidori Monogatari”, Shiba đã bắt đầu nổi tiếng trong lãnh vực tiểu thuyết lịch sử. Có thể nói “Ryouma ga yuku” là kiệt tác để đời của ông. Bộ trường thiên này kể về cuộc đời của Sakamoto Ryouma, một võ sĩ sống vào cuối thời Edo và là nhân tố quan trọng để công cuộc Minh Trị Duy Tân thành công. Nhật Bản dưới sự cai trị của Tướng Quân Tokugawa đã bế quan tỏa cảng hơn 200 năm, vì vậy khi người phương Tây đến Nhật thì nhiều người nhận ra sự thua sút của mình với thế giới bên ngoài. Dân chúng sống trong 200 năm đóng cửa đã nuôi dưỡng nên một cái nhìn sợ sệt đối với người nước ngoài. Cuối thời Edo, họ Tokugawa đồng ý mở cửa giao thương với Mỹ và một số nước Châu Âu nhưng nhiều người chống lại điều này. Họ lập nên phái “Sonnou Joui” chủ trương lật đổ Tokugawa, trả lại quyền lực cho Thiên Hoàng và đuổi người ngoại quốc ra khỏi Nhật Bản. Một phái khác ủng hộ chế độ Mạc Phủ của Tokugawa và hai phái này đã gây ra cuộc nội chiến thảm khốc. Đương thời cảnh ám sát giữa ban ngày là chuyện bình thường. Sakamoto Ryouma, một con người có lương tri nhận ra rằng cần phải thay đổi, cần phải học theo phương Tây để bảo vệ Tổ quốc, để đuổi kịp trình độ của Thế giới.

Dĩ nhiên Shiba không phải là nhà nghiên cứu lịch sử mà chỉ là tiểu thuyết gia. Tác phẩm của ông là tiểu thuyết chứ không phải luận văn nghiên cứu. Nhưng có lẽ Shiba là bậc thầy trong cuộc sống (Jinsei no tatsujin) nên mọi góc nhìn của ông về lịch sử đều rất độc đáo. Shiba là người giỏi nói chuyện, lại là người giỏi lắng nghe. Các tập truyện đối thoại của ông rất nhiều. Shiba còn nổi tiếng với tài đọc nhanh. Một hôm có người bạn đến nhà chơi vừa uống cà phê vừa nói chuyện. Trong lúc người bạn vừa uống hết ly cà phê thì Shiba vẫn vừa nói chuyện và đọc xong một cuốn sách dày. Mô tả lại chính xác những gì đọc được nên mọi người đều kinh ngạc.

Năm 1981 trở thành hội viên hội nghệ thuật Nhật Bản và được chọn là người có nhiều cống hiến cho văn hóa năm 1991. Đến nam 1993 Shiba được nhận huân chương văn hóa. Ngày 12 tháng 2 năm 1996 mất tại bệnh viện quốc lập Osaka, thọ 72 tuổi. Kỳ lạ là nơi ông mất cũng chính là nơi nhân vật Omura trong cuốn tiểu thuyết “Hanagami” của ông mất. Ngày 10 tháng 3 có hơn 3000 người tham gia vào ngày hội “tiễn đưa Shibaryou”. Năm 2001 nhà tưởng niệm Shibaryou Tarou được thành lập . Phòng kỷ niệm Shibaryou ở văn học quán Himeji mỗi năm vào ngày sinh nhật mùng 7 tháng 8 đều mở cửa đón khách tham quan. Shibaryou Tarou là người kết bạn với các nhân vật lịch sử !

Các giải thưởng:

1956: Giải Koudan Kurabu lần 8 với “Perusha no Genjutsu shi”
1960: Giải Naoki lần 42 với “Fukurou no shiro”
1966: Giải Kikuchi kan lần 14 với “Kunidori Monogatari” và “Ryouma ga yuku”
1967: Giải thưởng nghệ thuật Osaka và giải thưởng nghệ thuật Mainichi với “Junshi”
1968: Giải thưởng độc giả Bungei shunju 30 với “Rekishi wo kikou suru”
1970: Giải thưởng văn học Yoshikawa Eiji với “Yo ni sumu hibi”
1976: Giải thưởng viện nghệ thuật Nhật Bản lần 32.
1981: Giải thưởng văn học Yomiuri 33 với “Hitobito no Asioto”
1982: Giải thưởng Asahi
1985: Giải thưởng phát thanh văn hóa, giải thưởng văn học Nhật Bản lần 16 với “Namban no michi” trong series “Kaidou wo yuku”
1986: Giải thưởng văn học Yomiuri 38 với “Roshia ni tsuite”
1988: Giải thưởng Meijimura 14 vớI “Dattan Shippuroku”
1991: Người có công trong lãnh vực văn hóa
1993: Huân chương văn hóa
1996: Giải thưởng Ihara Saikaku lần thứ nhất.

Các tác phẩm chính:

Toàn tập, tuyển tập:

Shibaryou Tarou zenshuu ( 68 cuốn- Shibaryou Tarou toàn tập)
Shibaryou Tarou tampen zenshuu ( 12 cuốn – Shibaryou đoàn biên toàn tập)
Shibaryou Tarou ga kangaeta koto (15 cuốn- Những điều Shibaryou nghĩ)
Shibaryou Tarou taiwa senshuu ( 5 cuốn – Shibaryou đối thoại tuyển tập)

·Trường biên tiểu thuyết :

Fukurou no Shiro (1959 )- 梟の城
Kamigta Bushi (1660 ) ―上方武士
Kaze no Bushi (1961 ) ―風の武士
Sen’Un no yume (1961 ) ―戦雲の夢
Kazegami no Mon (1962 ) ―風神の門
Ryouma ga Yuku ( 1963 ) ―竜馬がゆく
Moeyo ken (1964 ) ―燃えよ剣
Shirikurae Magoichi (1964 ) ―尻啖え孫市
Koumyou ga Tsuji ( 1965 ) ―功名が辻
Shiro wo torubanashi (1965 ) ―城をとる話
Kunidori Monogatari (1965 ) ―国盗り物語
Hokuto no Hito (1966 ) ―北斗の人
Sekigahara (1966 )―関が原
Juuichi banme no shishi (1967 ) ―十一番目の志士
Saigo no Shougun ( 1967 ) ―最後の将軍
Junshi (1967 ) ―殉死
Natsugusa no Fu (1968 ) ―夏草の賦
Shinshi Taikouki (1968 ) ―新史太閤記
Yoshitsune ( 1968 ) ―義経
Tooge (1968 ) ―峠
Miyamoto Musashi (1968 ) ―宮本武蔵
Saka no ue no Kumo (1969 ) ―坂の上の雲
Youkai (1969 ) ―妖怪
Saigetsu (1969) ―歳月
Yo ni sumu Hibi (1971 ) ―世に棲む日々
Jousai (1971~1972 ) ―城塞
Hanagami (1972 ) ―花神
Tobu ga Gotoku ( 1975~1976 ) ―翔ぶが如く
Kochou no Yume (1979 ) ―胡蝶の夢
Hạng Vũ- Lưu Bang (1979 ) ―項羽と劉邦
Hitobito no Kyoon (1981 ) ― ひとびとの跫音
Nanohana no Oki (1982 ) ―菜の花の沖
Hakone no Saka (1984 ) —箱根の坂

·Tiểu thuyết trinh thám:

Buta to Bara (1960 )
Kojienjou (1962 )

·Đoản biên tiểu thuyết:

Osaka samurai (1959 ) ―大阪侍
Shinsetsu Miyamoto Musashi (1962 ) ―真説宮本武蔵
Bakumatsu (1963 ) ―幕末
Shinsengumi Keppuu roku (1964 ) ―新選組血風録
Yotte Sourou ( 1965 ) ―酔って候
Toyotomike ho hitobito ( 1967 ) ―豊臣家の人々
Orewa Gongen (1982 ) ―俺は権現

·Essay, đối thoại

Kaidou wo Yuku (1971 ) ―街道をゆく
Rekishi wo kikou suru ( 1962 ) ―歴史を紀行する
Ningen no shuudan ni tsuite (1973 ) ―人間の集団について
Choan kara Pekin e (1976 ) ―長安から北京へ
Rekishi no Butai (1984 ) ―歴史の舞台
Amerika no sobyou (1986 ) ―アメリカの素描
Sougen no Ki―草原の記

·Essay, tùy bút, bình luận

Rekishi no naka no Nihon (1974 ) ―歴史の中の日本
Rekishi to shiten (1974 ) ―歴史と視点
Roshia ni tsuite―ロシアについて
Kono kuni no katachi (1990 ) ―この国のかたち
Rekishi to fuudo (1998 ) ―歴史と風土
Ningen to iumono (1998 ) -人間というもの

Hiba
Thành viên diễn đàn VYSA

(Các bạn có thể bình luận và trao đổi ý kiến thêm với tác giả Hiba tại đây: http://vysa.jp/modules.php?op=modload&name=XForum&file=viewthread&tid=12465&page=1#pid89921)